TẬP QUÁN “BẮT VỢ, CƯỚP VỢ” VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC ÁP DỤNG PHONG TỤC TẬP QUÁN
Tục bắt vợ của người H’Mông là nét văn hóa đặc sắc và là phong tục lâu đời ở Việt Nam. Người con trai sẽ tìm đến người con gái mà họ thích để bắt về làm vợ.
Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng nền văn hóa và phong tục tập quán lâu đời nhưng để đảm bảo sự công bằng bình đẳng, tránh lạc hậu và tránh gây ảnh hưởng đời sống nhân dân nên Luật Hôn nhân gia đình 2014 đã có một số quy định mới khác với Luật hôn nhân gia định 2000 về vấn đề này. Cụ thể như sau:
“Điều 7. Áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình Luật Hôn nhân gia đình 2014
1. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng.
2. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này.”
Từ quy định nêu trên, có thể thấy Luật Hôn nhân gia đình 2014 đã giới hạn, ràng buộc điều kiện việc áp dụng tập quán địa phương. Để giải thích rõ hơn về các giới hạn đối với phong tục tập quá được quy định cụ thể Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân gia đình quy định như sau:
Điều 2. Nguyên tắc áp dụng tập quán
1. Tập quán được áp dụng phải là quy tắc xử sự phù hợp với quy định tại Khoản 4 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình.
2. Việc áp dụng tập quán phải tuân theo các điều kiện được quy định tại Điều 7 của Luật Hôn nhân và gia đình.
3. Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về tập quán được áp dụng.
Dựa theo nguyên tắc trên, tập quán được pháp luật cho phép áp dụng cần đáp ứng các điều kiện sau:
- Tập quán được công nhận áp dụng phải là Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng (Khoản 4 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014)
- Việc áp dụng tập quán phải không trái với nguyên tắc quy định tại:
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.”
Chú trọng hơn hết đối với vấn đề “bắt vợ” đang phân tích đó chính là khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân gia đình đó là Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. “Bắt vợ” phải có sự đồng thuận của bên cô gái và phải có sự công bằng không nhằm áp bức hay ép buộc để nhằm mục đích khác ngoài hôn nhân như thêm người làm lao động cho nhà trai….
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
- Và tập quán phải không vi phạm vào các điều cấm quy định tại:
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.”
Nhà làm luật luôn thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận các bên về tập quán nhưng tập quán pháp đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã được phân tích như trên để đảm bảo quyền lời ích của công dân, tránh lạc hậu trách việc bất hủ biến dạng trở thành các hủ tục lạc hậu phi lý
Trên đây là những tư vấn của Tư vấn Như Ý về vấn đề này, rất mong bài viết sẽ hữu ích cho bạn.