Bình luận những điểm mới được đề cập trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp 2020
Dẫn nhập: Xuất phát từ tính cấp bách, đáp ứng những nhu cầu thực tiễn và yếu tố quan trọng nhất là tránh bỏ lỡ những cơ hội thúc đẩy và phát triển kinh tế - xã hội toàn diện. Tại phiên họp thứ 6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV đã nhất trí bổ sung dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự vào Chương trình Xây dựng luật, nghị quyết năm 2021. Trong đó, riêng đối với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật doanh nghiệp đã khắc phục được những điểm bất cập đang tồn tại trong Luật Doanh nghiệp năm 2020, cụ thể là những vấn đề như:
I. Người dự họp bỏ về, luật yêu cầu chữ ký?
Cụ thể theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 60 Luật Doanh nghiệp 2020 (LDN 2020) về Biên bản họp Hội đồng thành viên LDN 2020 có quy định như sau:
“2. Biên bản họp Hội đồng thành viên phải thông qua ngay trước khi kết thúc cuộc họp. Biên bản phải bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
e) Họ, tên, chữ ký và nội dung ý kiến của người dự họp không đồng ý thông qua biên bản họp (nếu có);”
Nhận thấy uy định trên là chưa phù hợp với thực tiễn, vì người dự họp không đồng ý thông qua biên bản họp thì rất khó để yêu cầu họ ký tên, thực trạng hiện nay cho thấy các thành viên dự họp thường “bỏ về ngang”, không tiếp tục tham gia cho đến khi kết thúc cuộc họp, điều này khiến biên bản thiếu đi nội dung “ký tên, nêu ý kiến”trên. Tuynhiên, đây là quy định bắt buộc của luật hiện hành, vô hình chung khiến biên bản dự họp vô hiệu. Chính vì vậy, cần một cơ chế bảo vệ doanh nghiệp trong trường hợp này, tránh việc phải tiến hành họp lại nhiều lần, tiết kiệm thời gian và nhân lực.
Theo khoản 1 Điều 6 Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung thì vướng mắc trên đã được sửa đổi theo hướng lược bỏ yêu cầu về họ, tên, chữ ký của người dự họp và chỉ giữ lại “nội dung ý kiến của người dự họp không đồng ý thông quan biên bản họp”. Sự sửa đổi trên là vô cùng cần thiết và phù hợp.
Ngoài ra để đồng bộ với quy định trên thì tại Điều khoản 3 Điều 60 cũng được sửa đổi như sau:
“3. Trường hợp chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký biên bản họp thì biên bản này có hiệu lực nếu được tất cả thành viên khác của Hội đồng thành viên tham dự đồng ý thông qua biên bản họp ký và có đầy đủ nội dung theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 2 Điều này”.
Dự thảo sửa đổi quy định theo hướng chuyển đổi từ việc biên bản sẽ có hiệu lực nếu “được tất cả thành viên khác của HĐTV tham dự đồng ý thông qua” thay cho quy định “được tất cả thành viên khác của HĐTV tham gia dự họp ký”. Quy định mới đề cao ý chí của các thành viên dự họp nếu họ đồng ý thông qua thì biên bản họp vẫn có hiệu lực (khi có đầy đủ các nội dung theo quy định tại các điểm a, b,c, d, đ và e khoản 2 Điều 60) và đáp ứng điều kiện tỷ lệ biểu quyết thông qua đối với từng vấn đề, thay vì việc yêu cầu chữ ký của thành viên dự họp như LDN 2020. Vì như đã trình bày ở trên, nếu xảy ra tình hướng có thành viên dự họp không đồng ý với biên bản họp và cũng không đồng ý ký vào bất cứ biên bản nào hoặc bỏ về giữa chừng là một điều mà nhiều doanh nghiệp đang mắc phải, có thể là yếu tố khiến biên bản họp trở nên vô hiệu, quy định trên góp phần khắc phục bất cập này
Tương tự, đối với khoản 2 Điều 158 về Biên bản họp Hội đồng quản trị, quy định của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung cũngchuyển sang cách tiếp cận ưu tiên sự đồng ý thông qua từ các thành viên dự họp. Cụ thể:
“Trường hợp chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký biên bản họp nhưng nếu được tất cả thành viên khác của Hội đồng quản trị tham dự và đồng ý thông qua biên bản họp ký và có đầy đủ nội dung theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h khoản 1 Điều này thì biên bản này có hiệu lực. Biên bản họp ghi rõ việc chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký biên bản họp. Người ký biên bản họp chịu trách nhiệm liên đới về tính chính xác và trung thực của nội dung biên bản họp Hội đồng quản trị. Chủ tọa, người ghi biên bản chịu trách nhiệm cá nhân về thiệt hại xảy ra đối với doanh nghiệp do từ chối ký biên bản họp theo quy định của Luật này, Điều lệ công ty và pháp luật có liên quan.”
II. Nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc báo cáo, tóm tắt báo cáo tài chính giữa năm
Có thể hiểu rằng, báo cáo tài chính giữa năm không phải là không cần thiết, nhìn chung đây là sự kiểm tra, thực thi cơ chế rà soát của Nhà nước đối với doanh nghiệp, là một nghĩa vụ chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên quy định trên cũng vấp phải những phản đối vì bắt buộc các báo cáo tài chính phải được kiểm toán tại tổ chức kiểm toán độc lập. Câu hỏi đặt ra là nguồn lực nào cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ đối với báo cáo, tóm tắt báo cáo tài chính giữa năm?
Pháp luật ngày càng được xây dựng và hoàn thiện theo hướng có mục tiêu thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các chủ thể kinh doanh được tham gia vào thị trường và tuân thủ quy định pháp luật. Tuy nhiên thách thức đặt ra cho những doanh nghiệp có quy mô nhỏ hiện nay là phải tiến hành việc “báo cáo và tóm tắt báo cáo tài chính hằng năm đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập trong thời hạn 150 kể từ ngày kết thúc năm tài chính…” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 109 LDN 2020.
Về mặt bất lợi, quy định trên không chỉ mang lại những gánh nặng về tài chính cho doanh nghiệp có quy mô nhỏ mà còn bất hợp lý đối với những doanh nghiệp hoạt động vì mục đích phi lợi nhuận, công ích vì nó không thực sự cần thiết. Lý do cho vấn đề trên chính là Nghị định 47/2021/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp có quy định hướng dẫn doanh nghiệp Nhà nước phải thực hiện công bố báo cáo tài chính hằng năm đã được kiểm toán theo đúng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 109 LDN 2020. Việc cào bằng giữa doanh nghiệp Nhà nước và các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường là chưa phù hợp.
Chính vì vậy, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi theo hướng: Công ty phải công bố định kỳ trên trang thông tin điện tử của công ty và của cơ quan đại diện chủ sở hữu báo cáo và tóm tắt tài chính giữa năm, đã lược bỏ hoàn toàn yêu cầu “phải được kiểm toán tại tổ chức kiểm toán độc lập”.
III. Hiểu thế nào là cổ đông dự họp?
Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 148 LDN 2020 lấy căn cứ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu số cổ đông đại diện 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông dự họp tán thành, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3, 4 và 6 Điều này; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định:”
Tuy nhiên hiện nay, cổ đông dự họp được xác định thế nào là điều chưa được thống nhất, trong tình hình dịch Covid diễn biến phức tạp hiện nay, các doanh nghiệp chủ động chuyển sang hình thức trực tuyến để giải quyết vấn đề nội bộ công ty, mặc dù vậy vẫn có thực trạng các cổ đông không tiến hành biểu quyết bằng cách bình chọn trực tuyến hay trường hợp cổ đông bỏ về giữa chừng tại buổi họp. Vậy có được xem đây là trường hợp cổ đông dự họp hay không?
Vấn đề vừa nêu ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở để xác định số cổ đông đại diện 65% vốn điều lệ và tương tự là 50% vốn điều lệ tại khoản 2 Điều 148 LDN 2020.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung đưa ra một cách tiếp cận khác chính là “tổng số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông biểu quyết tại cuộc họp tán thành”. Sự sửa đổi này là phù hợp với thực tế vì có trường hợp cổ đông tuy tham gia nhưng lại không biểu quyết tức họ đang bỏ phiếu trắng đối với nghị quyết, việc tính toán và xác định tỷ lệ thông qua việc dự họp của họ là chưa hợp lý và bộc lộ khía cạnh kém hiệu quả về mặt quản trị công ty, thêm vào đó,sau đó khi bước vào quá trình thi hành nghị quyết dễ dàng dẫn đến những khó khăn nhất định cho công ty.
IV. Luật doanh nghiệp 2020 có đang “bỏ ngõ” đối với công ty TNHH một hành viên do doanh nghiệp nhà nước quy định tại khoản 2 Điều 88 LDN nắm giữ 100% vốn điều lệ?
Quy định tại Điều 217 về việc Tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh thì đã lược bỏ đi quy định “doanh nghiệp là công ty con của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” (tức thông qua quan hệ Công ty mẹ, Tập đoàn, Tổng công ty), xuất phát từ lý do đây là quy định thừa kế của LDN 2014 và vấn đề này được hướng dẫn tại Nghị định số 93/2015/ NĐ-CP (về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp quốc phòng, an ninh) mặc dù thực tế hiện nay tồn tại rất nhiều doanh nghiệp được Bộ Quốc phòng giao thực hiện nhiệm vụ QP, AN dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn do các công ty mẹ thuộc Bộ Quốc phòng sở hữu 100% vốn điều lệ.
Chính vì vậy, nếu chiếu theo quy định của LDN năm 2020 thì vẫn không thể khắc phục được thiếu sót của LDN 2014 khi không quy định điều chỉnh chi tiết đối với loại hình doanh nghiệp này.Dự thảo đã đưa ra hướng sửa đổi, bổ sung như sau:
“6. Sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 217 như sau:
5. Căn cứ vào quy định của Luật này, Chính phủ quy định chi tiết việc tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật Doanh nghiệp nắm giữ 100% vốn điều lệ”.
Sửa đổi trên là phù hợp khắc phục sự thiếu sót của cả LDN 2014 và LDN 2020.
Trên đây là một số thông tin tổng quát liên quan đến một số điểm mới của Luật doanh nghiệp 2020 trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật hiện nay. Hy vọng sẽ hữu ích với các bạn trong công việc, cảm ơn Quý bạn đọc đã theo dõi bài viết.