ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Kiểu dáng công nghiệp là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Căn cứ xác lập dựa trên cơ sở kiểu dáng công nghiệp là được cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ kiểu dáng công nghiệp nào cũng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp văn bằng bảo hộ mà kiểu dáng công nghiệp muốn được bảo hộ phải đáp ứng những điều kiện quy định tại Luật sở hữu trí tuệ. Cụ thể, theo quy định tại Điều 58, một kiểu dáng công nghiệp muốn được bảo hộ phải đáp ứng những điều kiện sau:
Thứ nhất, kiểu dáng công nghiệp có tính mới
Tính mới là một trong những điều kiện cơ bản và tiên quyết đầu tiên để xác định một kiểu dáng công nghiệp có được bảo hộ hay không. Một kiểu dáng được cho là mới nếu như kiểu dáng đó khác biệt đáng kể với những kiểu dáng công nghiệp đã bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được hưởng quyền ưu tiên.
Kiểu dáng công nghiệp được coi là chưa bị bộ lộ công khai nếu như chỉ rất ít người biết về nó và có nghĩa vụ giữ bí mật về kiểu dáng công nghiệp đó.
Tuy nhiên, tính mới ở trong quy định này không mang tính chất tuyệt đối, tức mới hoàn toàn chưa hề được bộc lộ hay giống với kiểu dáng đã được bảo hộ trước đó. Vì theo quy định Luật SHTT thì kiểu dáng công nghiệp được coi là có tính mới nếu kiểu dáng công nghiệp đó khác biệt đáng kể với những kiểu dáng công nghiệp đã bị bộc lộ công khai. Có nghĩa là kiểu dáng công nghiệp đó nó có thể có một vài chi tiết, đặc điểm tạo dáng giống với kiểu dáng công nghiệp đã được công bố trước đó tuy nhiên những đặc điểm này phải đảm bảo điều kiện luật định là không đóng vai trò cốt yếu trong việc phân biệt tổng thể hai kiểu dáng công nghiệp đó. Bên cạnh đó, Luật SHTT cũng quy định một vài trường hợp kiểu dáng công nghiệp vẫn giữ được tính mới cho dù nó đã được bộc lộ công khai trước ngày nộp đơn đăng kí. Do vậy, có thể nói tính mới của kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ là tính mới tương đối.
Thứ hai, kiểu dáng công nghiệp phải có tính sáng tạo
Kiểu dáng công nghiệp được coi là có tính sáng tạo nếu căn cứ vào các kiểu dáng công nghiệp đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên, kiểu dáng công nghiệp đó không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực tương ứng.
Để đánh giá tính sáng tạo của một kiểu dáng công nghiệp, cần so sánh các đặc điểm, cấu trúc chức năng cơ bản của kiểu dáng đó với những kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc tương tự trong quá trình tìm kiếm, tra cứu thông tin.
Thứ ba, kiểu dáng công nghiệp phải có khả năng áp dụng công nghiệp
Kiểu dáng công nghiệp được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể dùng làm mẫu để chế tạo hàng loạt sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp đó bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Tuy nhiên, không phải kiểu dáng công nghiệp nào đáp ứng được 3 điều kiện trên thì sẽ đương nhiên được bảo hộ mà pháp luật sở hữu trí tuệ có quy định riêng những trường hợp kiểu dáng công nghiệp không được bảo hộ tại Điều 64:
Điều 64. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng công nghiệp
Các đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng công nghiệp:
1. Hình dáng bên ngoài của sản phẩm do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm bắt buộc phải có;
2. Hình dáng bên ngoài của công trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp;
3. Hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử dụng sản phẩm.