NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản kèm theo các nghĩa vụ tài sản từ người chết sang người sống, những người thừa kế sẽ được hưởng phần di sản mà người mất để lại theo quy định của pháp luật hay theo di chúc của người để lại di sản.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, có những người bị pháp luật cấm không được nhận phần di sản mà họ đáng nhẽ được hưởng đúng theo quy định pháp luật vì những hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức nghiêm trọng của họ hay do bị người để lại di chúc truất quyền thừa kế. Những người này được pháp luật dân sự gọi là những người không được hưởng quyền di sản.
Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm cả người thừa kế theo pháp luật và người thừa kế theo di chúc; được chia thành hai nhóm: nhóm những người bị truất quyền thừa kế và nhóm người bị tước quyền thừa kế.
Người bị truất quyền thừa kế
Người bị truất quyền thừa kế là việc người để lại di sản không cho người thừa kế hưởng phần di sản của mình. Đây là một trong những quyền của người lập di chúc được quy định tại Điều 626 BLDS, nghĩa là việc truất quyền thừa kế chỉ xảy ra khi người để lại di sản tiến hành lập di chúc để chia di sản, áp dụng đối với trường hợp thừa kế theo di chúc.
Theo đó, những người bị truất quyền chỉ có thể là những người thừa kế theo pháp luật. Một người thừa kế theo pháp luật bị truất quyền thừa kế khi trong di chúc của người để lại di sản ghi rõ truất quyền thừa kế của người này. Và đương nhiên khi đó, người thừa kế theo pháp luật sẽ bị truất quyền hưởng di sản và mất tư cách người thừa kế theo luật định.
Cần phân biệt người bị truất quyền thừa kế và người không được chỉ định trong di chúc. Cả hai trường hợp trên đều không được người để lại di chúc cho hưởng di sản. Tuy nhiên, người không được chỉ định trong di chúc có thể không phải người bị truất quyền thừa kế nhưng người bị truất quyền thừa kế chắc chắn là người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản.
Thông thường, người để lại di chúc sẽ chỉ định cá nhân, tổ chức, pháp nhân cụ thể được hưởng di sản của mình cũng như chỉ đích danh những chủ thể bị truất quyền thừa kế. Pháp luật không yêu cầu người lập di chúc phải ghi lý do truất quyền, quy định này là hợp lý để đảm bảo nguyên tắc tự do định đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Bên cạnh đó, đối với những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 644 BLDS) thì dù họ bị người để lại di chúc truất quyền thừa kế thì vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất thừa kế nếu chia theo pháp luật. Những người này chỉ không được nhận phần di sản nếu như họ từ chối hoặc thuộc trường hợp những người bị tước quyền thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS.
Người bị tước quyền thừa kế
Khoản 1 Điều 621 BLDS quy định về những trường hợp người thừa kế không được hưởng quyền thừa kế. Đó chính là những trường hợp bị tước quyền thừa kế do có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm… của người để lại di sản và những người thừa kế khác, có những hành động không xứng đáng với bổn phận của mình. Việc thực hiện tước quyền sẽ được trao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo đó, khi phát hiện những người thừa kế này có hành vi vi phạm thì theo yêu cầu của những bên liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định tước quyền thừa kế của chủ thể vi phạm. Những người này đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định, họ là người thừa kế của người để lại di sản nhưng do vi phạm nên bị tước quyền. Đó là những trường hợp:
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên, nhằm đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí của các bên chủ thể trong quan hệ thừa kế, tôn trọng quyết định của người để lại di chúc nên pháp luật dân sự vẫn có quy định mở ngỏ cho phép những người thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế trên được hưởng di sản nếu người để lại di chúc biết những hành vi vi phạm của họ những vẫn cho họ hưởng quyền thừa kế trong di chúc (khoản 2 Điều 621 BLDS).
Như vậy, người không được quyền hưởng di chúc bao gồm những người bị truất quyền thừa kế theo di chúc và người bị tước quyền thừa kế theo quy định pháp luật. Mỗi một chế định có các quy định pháp luật riêng điều chỉnh mối quan hệ này.
Trên đây là những tư vấn của Tư vấn Như Ý về vấn đề này, rất mong bài viết sẽ hữu ích cho bạn.